Trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay có rất nhiều cơ sở sản xuất gạch không với tổng công suất lên tới 500 triệu viên/năm. Phải kể đến các nhà máy sản xuất như Công ty Cổ phần Vật liệu xây dựng Hải Quân công suất 70 triệu viên/năm, Công ty cổ phần gạch không nung Bắc Ninh 40 triệu viên/năm. Công ty cổ phần gạch Bắc Thái 12 triệu viên /năm... Hình ảnh bên trong nhà máy gạch không nung của công ty Cổ phần xây dựng Hải Quân Mặc dù vậy lượng gạch không nung sản xuất ra vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường to lớn như tỉnh Bắc Ninh . Số lượng các công trình lớn vẫn phải nhập gạch không nung từ công ty Cổ phần gạch Khang Minh dưới Hà Nam lên tới hàng trăm triệu viên. Điển hình như các công trình ở khu đô thị mới Tân Hồng - thị xã Từ Sơn . UBND thị xã Từ Sơn , Đoạn đường từ Trần Phú rẽ sang Đền Đô ... Tại sao một thị trường gạch có nhu...
Việc tận thu tro xỉ thải của các nhà máy nhiệt điện đốt than làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng (VLXD) là biện pháp hữu hiệu để tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, tại Việt Nam đây vẫn còn là một bài toán khó...
Phong phú nguồn tài nguyên tro xỉ thải
Thống kê cho thấy, từ năm 2013, riêng lượng tro xỉ thải hằng năm tại 5 nhà máy nhiệt điện đốt than của Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) khi phát đủ công suất ước tính khoảng 2,8 triệu tấn/năm.
Dự báo, đến năm 2030, khi tổng công suất nhiệt điện đốt than của cả nước tăng lên khoảng 77 nghìn MW, kéo theo tăng lượng than tiêu thụ là 176 triệu tấn thì lượng tro xỉ thải sẽ đạt 35 triệu tấn/năm và thải ra bầu khí quyển một lượng khí SOx khổng lồ, ước tính khoảng 5 triệu tấn/năm.
Còn theo chiến lược phát triển ngành điện, chiến lược phát triển các ngành sản xuất công nghiệp sử dụng than, sản xuất hóa chất phân bón thì năm 2020 nước ta sử dụng khoảng 67,36 triệu tấn than cho nhiệt điện, hàng chục triệu tấn than cho ngành sản xuất thép và công nghiệp khác, đồng nghĩa với thải gần 50 triệu tấn tro, xỉ, thạch cao ra môi trường. Con số này ngày càng cao ở các năm tiếp theo.
Trước thực trạng trên, các chuyên gia nhận định, việc nghiên cứu tận thu tro xỉ thải của các nhà máy nhiệt điện đốt than làm nguyên liệu sản xuất VLXD là vấn đề đáng quan tâm hiện nay, nhằm giảm bớt những tác hại đến môi trường. Tuy nhiên, để tìm kiếm những giải pháp sử dụng tro xỉ sao cho hiệu quả nhất không phải là bài toán đơn giản... Trên thế giới, các quốc gia phát triển luôn khuyến khích sử dụng tro xỉ than từ nhà máy nhiệt điện trong xây dựng đường sá và đôi khi là điều kiện bắt buộc.
Tại Việt Nam, một số nhà máy thu hồi chế biến tro bay và sản xuất gạch không nung từ tro xỉ đã được xây dựng vận hành ở gần một số nhà máy nhiệt điện như tại Nhà máy Sản xuất tro bay Phả Lại với công suất 40 nghìn tấn/tháng; Nhà máy Chế biến tro bay Cao Cường có công suất 80 nghìn tấn sản phẩm/năm; Xưởng tuyển tro bay của BQL công trình Thủy điện Sơn La có công suất 10 nghìn tấn/tháng...
Thế nhưng, theo các chuyên gia khoa học, việc thu hồi tro xỉ không hề đơn giản bởi phần lớn các nhà máy nhiệt điện đang hoạt động tại Việt Nam đều chưa có hệ thống thu hồi chất thải, hoặc có nhưng hiệu quả thấp và không đồng đều. Thậm chí, còn rất nhiều nhà máy nhiệt điện được xây dựng từ thập niên 60 của thế kỷ trước như Nhà máy Nhiệt điện Ninh Bình, Phả Lại I, Uông Bí.
Tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường
Để giải quyết vấn đề này, mới đây, Bộ Xây dựng đã có Tờ trình số 18/Ttr-BXD ngày 31/3/2014 gửi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cơ chế thực hiện xử lý, sử dụng tro, xỉ, thạch cao của các nhà máy nhiệt điện, nhà máy hóa chất để làm nguyên liệu sản xuất VLXD giai đoạn 2014 – 2020, định hướng đến năm 2030.
Theo tờ trình, nếu có cơ chế, giải pháp và tổ chức thực hiện tốt việc sử dụng nguồn phế thải này làm nguyên liệu sản xuất VLXD thì nước ta sẽ không phải sử dụng hàng ngàn ha đất làm diện tích chứa thải, giảm khai thác hàng chục triệu tấn khoáng sản để làm nguyên liệu cho các ngành sản xuất VLXD mỗi năm và tiết kiệm được nguồn kinh phí lớn do không phải xử lý các tác động của khối chất thải này đối với môi trường và cộng đồng. Điều đó sẽ tạo điều kiện để các ngành sản xuất điện, phân bón, thép và sản xuất VLXD phát triển bền vững và thân thiện với môi trường.
Thực tế cho thấy, các nước phát triển trên thế giới và khu vực đã rất thành công trong việc xử lý, sử dụng thạch cao, tro, xỉ từ sản xuất điện, hóa chất làm nguyên liệu sản xuất VLXD. Tại Pháp, có đến 99% lượng tro xỉ than thải ra được tái sử dụng. Tại Nhật Bản, con số này là 80%, tại Hàn Quốc là 85%.
Bộ Xây dựng đánh giá, tại Việt Nam, nhiều tổ chức, cá nhân sản xuất điện, hóa chất, sản xuất VLXD, các cơ sở nghiên cứu đã có nhiều biện pháp xử lý, sử dụng thạch cao, tro, xỉ để làm nguyên liệu sản xuất xi măng, VLXD, làm các loại bê tông, nền móng, kè, đập rất hiệu quả, thay thế một phần tài nguyên đất để sản xuất VLXD, giảm áp lực diện tích đất làm bãi chứa và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên những nghiên cứu này mới chỉ mang tính tự phát. Bên cạnh đó lại có những tổ chức, cá nhân còn xin nhập tro, xỉ để sản xuất VLXD. Các tổ chức, cá nhân đầu tư, sản xuất điện, thép, hóa chất, các cơ sở sản xuất công nghiệp có thải ra tro, xỉ, thạch cao và các cơ sở sản xuất VLXD đang rất cần cơ sở pháp lý để việc xử lý, sử dụng thạch cao, tro, xỉ làm VLXD là hợp pháp và có định hướng phát triển bền vững.
Nguyên liệu chủ yếu sản xuất gạch sử dụng phế cặn tự dưỡng là phế thải công nghiệp, như bột tro bay, đá bìa, xỉ lò và các loại gạch ngói phế thải cũ, bột đá, cát sông, các loại cặn quặng… trong đó lượng sử dụng đạt trên 80%, được lấy từ các nhà máy phát điện, xưởng quặng than, xưởng nhiệt điện, xưởng sắt thép, xưởng vật liệu đá. Những vật liệu phụ trợ khác là vôi, xi măng, thạch cao…
Công nghệ sản xuất gạch bê tông sử dụng tro bay
1.Nguyên liệu
Nguyên liệu chủ yếu sản xuất gạch sử dụng phế cặn tự dưỡng là phế thải công nghiệp, như bột tro bay, đá bìa, xỉ lò và các loại gạch ngói phế thải cũ, bột đá, cát sông, các loại cặn quặng… trong đó lượng sử dụng đạt trên 80%, được lấy từ các nhà máy phát điện, xưởng quặng than, xưởng nhiệt điện, xưởng sắt thép, xưởng vật liệu đá. Những vật liệu phụ trợ khác là vôi, xi măng, thạch cao…
2.Cơ lý thành hình
Trong chất thải công nghiệp như bột tro bay, đá bìa, cặn lò đều chứa thành phần SiO, Al2O3, Fe2O3, sau khi nguyên vật liệu được trộn đều, được hidrat hóa hình thành thể kính Silic và nhôm, thể kính này sau khi được hydrat hóa và hợp với CaO sản sinh ra phản ứng hóa học, phương trình hóa học của nó là:
Ca(OH)2+XSiO2+nH2O→XCaOSiO2H2OCa(OH)2+XAL3O2+nH2O→XCaOAL2O3H2O
Hydrat hóa chất hoạt tính nước phản ứng hóa học CaSiO3 (Al2O3, CaO) là một thể kính dạng keo, thể kính dạng keo này không ổn định, phản ứng kéo dài theo thời gian, dần dần cứng chắc, hình thành kết cấu hình mạng với cường độ cao, điều chỉnh phối hợp nguyên vật liệu hợp lý và dưỡng hộ từ đó mà hình thành cường độ gạch tự dưỡng.
3.Công nghệ sản xuất
Công nghệ sản xuất gạch phế liệu tự dưỡng đơn giản, lưu trình như sau: trộn nguyên liệu( thiết bị đưa liệu hoặc đai truyền)→ máy ép gạch→phôi→dưỡng hộ→thành phẩm .Theo thông thường, nguyên vật liệu được máy trộn đều, 700 kg nguyên liệu được đai truyền chuyển đến máy bánh lăn để tiến hành trộn lần 2 khoảng 3-4 phút, sau đó được đai truyền hoặc máy đưa liệu chuyển đến trong gầu ép gạch, máy ép gạch sau mỗi lần ra được 2000 viên gạch phôi, đồng thời gạch được công nhân vận chuyên đến xe đẩy, chuyển vào xưởng, giữa các viên gạch không có khe hở, xếp cao 15 tầng, dưỡng hộ 15 ngày thì sẽ trở thành thành phẩm xuất xưởng.
4.Chỉ tiêu kỹ thuật
Qua thử nghiệm của Trung tâm VLXD Nhiệt đới – Đại học xây dựng thì tính năng của gạch sử dụng chất phế thải tự dưỡng đạt chất lượng tốt, cường độ đạt mác 100 – 200, cường độ chịu uốn là 26Kg-40Kg/cm2, tỷ lệ hút nước là 5.2%-6,3%.
Phong phú nguồn tài nguyên tro xỉ thải
Thống kê cho thấy, từ năm 2013, riêng lượng tro xỉ thải hằng năm tại 5 nhà máy nhiệt điện đốt than của Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) khi phát đủ công suất ước tính khoảng 2,8 triệu tấn/năm.
Dự báo, đến năm 2030, khi tổng công suất nhiệt điện đốt than của cả nước tăng lên khoảng 77 nghìn MW, kéo theo tăng lượng than tiêu thụ là 176 triệu tấn thì lượng tro xỉ thải sẽ đạt 35 triệu tấn/năm và thải ra bầu khí quyển một lượng khí SOx khổng lồ, ước tính khoảng 5 triệu tấn/năm.
Còn theo chiến lược phát triển ngành điện, chiến lược phát triển các ngành sản xuất công nghiệp sử dụng than, sản xuất hóa chất phân bón thì năm 2020 nước ta sử dụng khoảng 67,36 triệu tấn than cho nhiệt điện, hàng chục triệu tấn than cho ngành sản xuất thép và công nghiệp khác, đồng nghĩa với thải gần 50 triệu tấn tro, xỉ, thạch cao ra môi trường. Con số này ngày càng cao ở các năm tiếp theo.
Trước thực trạng trên, các chuyên gia nhận định, việc nghiên cứu tận thu tro xỉ thải của các nhà máy nhiệt điện đốt than làm nguyên liệu sản xuất VLXD là vấn đề đáng quan tâm hiện nay, nhằm giảm bớt những tác hại đến môi trường. Tuy nhiên, để tìm kiếm những giải pháp sử dụng tro xỉ sao cho hiệu quả nhất không phải là bài toán đơn giản... Trên thế giới, các quốc gia phát triển luôn khuyến khích sử dụng tro xỉ than từ nhà máy nhiệt điện trong xây dựng đường sá và đôi khi là điều kiện bắt buộc.
Tại Việt Nam, một số nhà máy thu hồi chế biến tro bay và sản xuất gạch không nung từ tro xỉ đã được xây dựng vận hành ở gần một số nhà máy nhiệt điện như tại Nhà máy Sản xuất tro bay Phả Lại với công suất 40 nghìn tấn/tháng; Nhà máy Chế biến tro bay Cao Cường có công suất 80 nghìn tấn sản phẩm/năm; Xưởng tuyển tro bay của BQL công trình Thủy điện Sơn La có công suất 10 nghìn tấn/tháng...
Thế nhưng, theo các chuyên gia khoa học, việc thu hồi tro xỉ không hề đơn giản bởi phần lớn các nhà máy nhiệt điện đang hoạt động tại Việt Nam đều chưa có hệ thống thu hồi chất thải, hoặc có nhưng hiệu quả thấp và không đồng đều. Thậm chí, còn rất nhiều nhà máy nhiệt điện được xây dựng từ thập niên 60 của thế kỷ trước như Nhà máy Nhiệt điện Ninh Bình, Phả Lại I, Uông Bí.
Tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường
Để giải quyết vấn đề này, mới đây, Bộ Xây dựng đã có Tờ trình số 18/Ttr-BXD ngày 31/3/2014 gửi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cơ chế thực hiện xử lý, sử dụng tro, xỉ, thạch cao của các nhà máy nhiệt điện, nhà máy hóa chất để làm nguyên liệu sản xuất VLXD giai đoạn 2014 – 2020, định hướng đến năm 2030.
Theo tờ trình, nếu có cơ chế, giải pháp và tổ chức thực hiện tốt việc sử dụng nguồn phế thải này làm nguyên liệu sản xuất VLXD thì nước ta sẽ không phải sử dụng hàng ngàn ha đất làm diện tích chứa thải, giảm khai thác hàng chục triệu tấn khoáng sản để làm nguyên liệu cho các ngành sản xuất VLXD mỗi năm và tiết kiệm được nguồn kinh phí lớn do không phải xử lý các tác động của khối chất thải này đối với môi trường và cộng đồng. Điều đó sẽ tạo điều kiện để các ngành sản xuất điện, phân bón, thép và sản xuất VLXD phát triển bền vững và thân thiện với môi trường.
Thực tế cho thấy, các nước phát triển trên thế giới và khu vực đã rất thành công trong việc xử lý, sử dụng thạch cao, tro, xỉ từ sản xuất điện, hóa chất làm nguyên liệu sản xuất VLXD. Tại Pháp, có đến 99% lượng tro xỉ than thải ra được tái sử dụng. Tại Nhật Bản, con số này là 80%, tại Hàn Quốc là 85%.
Bộ Xây dựng đánh giá, tại Việt Nam, nhiều tổ chức, cá nhân sản xuất điện, hóa chất, sản xuất VLXD, các cơ sở nghiên cứu đã có nhiều biện pháp xử lý, sử dụng thạch cao, tro, xỉ để làm nguyên liệu sản xuất xi măng, VLXD, làm các loại bê tông, nền móng, kè, đập rất hiệu quả, thay thế một phần tài nguyên đất để sản xuất VLXD, giảm áp lực diện tích đất làm bãi chứa và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên những nghiên cứu này mới chỉ mang tính tự phát. Bên cạnh đó lại có những tổ chức, cá nhân còn xin nhập tro, xỉ để sản xuất VLXD. Các tổ chức, cá nhân đầu tư, sản xuất điện, thép, hóa chất, các cơ sở sản xuất công nghiệp có thải ra tro, xỉ, thạch cao và các cơ sở sản xuất VLXD đang rất cần cơ sở pháp lý để việc xử lý, sử dụng thạch cao, tro, xỉ làm VLXD là hợp pháp và có định hướng phát triển bền vững.
Nguyên liệu chủ yếu sản xuất gạch sử dụng phế cặn tự dưỡng là phế thải công nghiệp, như bột tro bay, đá bìa, xỉ lò và các loại gạch ngói phế thải cũ, bột đá, cát sông, các loại cặn quặng… trong đó lượng sử dụng đạt trên 80%, được lấy từ các nhà máy phát điện, xưởng quặng than, xưởng nhiệt điện, xưởng sắt thép, xưởng vật liệu đá. Những vật liệu phụ trợ khác là vôi, xi măng, thạch cao…
Công nghệ sản xuất gạch bê tông sử dụng tro bay
1.Nguyên liệu
Nguyên liệu chủ yếu sản xuất gạch sử dụng phế cặn tự dưỡng là phế thải công nghiệp, như bột tro bay, đá bìa, xỉ lò và các loại gạch ngói phế thải cũ, bột đá, cát sông, các loại cặn quặng… trong đó lượng sử dụng đạt trên 80%, được lấy từ các nhà máy phát điện, xưởng quặng than, xưởng nhiệt điện, xưởng sắt thép, xưởng vật liệu đá. Những vật liệu phụ trợ khác là vôi, xi măng, thạch cao…
2.Cơ lý thành hình
Trong chất thải công nghiệp như bột tro bay, đá bìa, cặn lò đều chứa thành phần SiO, Al2O3, Fe2O3, sau khi nguyên vật liệu được trộn đều, được hidrat hóa hình thành thể kính Silic và nhôm, thể kính này sau khi được hydrat hóa và hợp với CaO sản sinh ra phản ứng hóa học, phương trình hóa học của nó là:
Ca(OH)2+XSiO2+nH2O→XCaOSiO2H2OCa(OH)2+XAL3O2+nH2O→XCaOAL2O3H2O
Hydrat hóa chất hoạt tính nước phản ứng hóa học CaSiO3 (Al2O3, CaO) là một thể kính dạng keo, thể kính dạng keo này không ổn định, phản ứng kéo dài theo thời gian, dần dần cứng chắc, hình thành kết cấu hình mạng với cường độ cao, điều chỉnh phối hợp nguyên vật liệu hợp lý và dưỡng hộ từ đó mà hình thành cường độ gạch tự dưỡng.
3.Công nghệ sản xuất
Công nghệ sản xuất gạch phế liệu tự dưỡng đơn giản, lưu trình như sau: trộn nguyên liệu( thiết bị đưa liệu hoặc đai truyền)→ máy ép gạch→phôi→dưỡng hộ→thành phẩm .Theo thông thường, nguyên vật liệu được máy trộn đều, 700 kg nguyên liệu được đai truyền chuyển đến máy bánh lăn để tiến hành trộn lần 2 khoảng 3-4 phút, sau đó được đai truyền hoặc máy đưa liệu chuyển đến trong gầu ép gạch, máy ép gạch sau mỗi lần ra được 2000 viên gạch phôi, đồng thời gạch được công nhân vận chuyên đến xe đẩy, chuyển vào xưởng, giữa các viên gạch không có khe hở, xếp cao 15 tầng, dưỡng hộ 15 ngày thì sẽ trở thành thành phẩm xuất xưởng.
4.Chỉ tiêu kỹ thuật
Qua thử nghiệm của Trung tâm VLXD Nhiệt đới – Đại học xây dựng thì tính năng của gạch sử dụng chất phế thải tự dưỡng đạt chất lượng tốt, cường độ đạt mác 100 – 200, cường độ chịu uốn là 26Kg-40Kg/cm2, tỷ lệ hút nước là 5.2%-6,3%.
Nhận xét
Đăng nhận xét